KẾT QUẢ THỰC HIỆN MỘT SỐ CHỈ TIÊU CHỦ YẾU CỦA
NHIỆM KỲ 2010 - 2015
 
TT Chỉ tiêu Đơn vị
tính
Chỉ tiêu Đại hội V Ước thực hiện đến 2015 So
sánh
I CHỈ TIÊU VỀ KINH TẾ        
1 Tốc độ tăng trưởng bình quân/năm % 13 13,15 Vượt
2 Cơ cấu kinh tế % 100 100 Chuyển dịch phù hợp
  - Nông, lâm nghiệp % 52 48,6  
  - Công nghiệp - TTCN - Xây dựng % 16 18,3  
  - Thương mại - dịch vụ % 32 33,1  
3 Thu nhập bình quân đầu người/năm (đã trừ chi phí) Triệu đồng 20 28,3 Vượt
4 Tăng thu ngân sách bình quân hằng năm % 15 4,5 Không đạt
5 Tổng sản lượng lương thực quy ra thóc Tấn 4000 3.493 Không đạt
6 Tổng diện tích cây trồng (không tính diện tích của 03 công ty cao su 72, 74, 75) ha 18.500 18.692 Vượt
  - Lúa nước 2 vụ ha 460 408 Không đạt
  - Cà phê ha 4.569 5.251 Vượt
  - Tiêu ha 250 537 Vượt
  - Điều ha 3.454 4.067 Vượt
  - Cao su tiểu điền ha 4.300 4.300 Đạt
II CHỈ TIÊU VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI        
1 Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên % 1,9 1,76 Đạt
2 Tỷ lệ hộ nghèo giảm hằng năm % giảm 2% trở lên 2,9 Đạt
3 Số lao động được giải quyết việc làm hằng năm lao động 600 420 Không đạt
4 Tỷ lệ hộ dân dùng nước hợp vệ sinh % 95        84,3 Không đạt
5 Xây dựng nông thôn mới     xã 2 2 Đạt
6 Y tế        
  - Số xã có bác sỹ 10 10 Đạt
  - Số xã, thị trấn đạt chuẩn Quốc gia 8 8 Đạt
  - Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng % 20 21,5 Không đạt
7 Văn hoá - giáo dục        
  - Tỷ lệ huy động trẻ em đến trường % 98 98 Đạt
  - Số trường đạt chuẩn quốc gia Trường 05 05 Đạt
  - Tỷ lệ thôn, làng văn hoá % 50 60 Vượt
  - Tỷ lệ gia đình văn hoá % 55 66 Vượt
III QUỐC PHÒNG - AN NINH        
1 Tỷ lệ giao quân % 100 100 Đạt
2 Diễn tập 02 cấp: huyện, xã đạt loại Khá Khá Đạt
IV XÂY DỰNG ĐẢNG        
1 Tỷ lệ TCCS đảng TSVM hằng năm % 60 42,3 Không đạt
2 Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm % 80 84,3 Vượt
3 Tỷ lệ kết nạp đảng viên mới hằng năm %/trên tổng số đảng viên đầu nhiệm kỳ 6 6 Đạt
4 Xóa thôn, làng trắng tổ chức đảng làng 6 6 Đạt
5 Tỷ lệ tập hợp quần chúng vào các tổ chức đoàn, hội % 85 90 Vượt
 
KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU ĐẢNG BỘ HUYỆN LẦN THỨ V (NHIỆM KỲ 2010 - 2015)

Triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ V (nhiệm kỳ 2010 - 2015) (sau đây gọi tắt là Nghị quyết V) trong điều kiện nền kinh tế của cả nước gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính, giá cả một số sản phẩm cây công nghiệp dài ngày không ổn định; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh diễn biến thất thường; tình hình Biển Đông, biên giới và an ninh chính trị còn tiềm ẩn nhiều yếu tố phức tạp… Song, được sự quan tâm đầu tư của Trung ương, sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, cùng với sự quyết tâm chính trị cao, Đảng bộ, quân và nhân dân các dân tộc trong huyện đã tranh thủ thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ chủ yếu mà Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ V đã đề ra.         
 NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
1- Về kinh tế
Kinh tế của huyện duy trì ở mức tăng trưởng khá, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 13,15%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội V (1). Tổng giá trị sản xuất năm 2015 là 3.996,4 tỷ đồng, tăng gấp 2,53 lần so với năm 2010; thu nhập bình quân đầu người đạt 28,3 triệu đồng/năm, tăng gấp 2,83 lần so với năm 2010, vượt chỉ tiêu Nghị quyết V đề ra (2).
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, phù hợp với điều kiện thực tế của huyện. Đến năm 2015, tỷ trọng ngành nông, lâm nghiệp chiếm 48,6%, tiểu thủ công nghiệp - xây dựng chiếm 18,3%, dịch vụ chiếm 33,1%; so với năm 2010, tỷ trọng nông, lâm nghiệp giảm 9,8%, tỷ trọng tiểu thủ công nghiệp - xây dựng tăng 5,7%, tỷ trọng dịch vụ tăng 4,1% (3).
- Sản xuất nông, lâm nghiệp phát triển khá bền vững. Giá trị sản xuất ngành nông nghiệp gấp 2,11 lần so với năm 2010, tăng trưởng bình quân 6,02%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết V (4). Quy mô diện tích cây công nghiệp dài ngày tăng 1.445 ha (5). Từng bước hình thành những vùng chuyên canh tập trung, phù hợp với thổ nhưỡng, điều kiện thực tế của địa phương, nhằm nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích. Thực hiện tốt công tác thông tin dự báo thời tiết, dịch bệnh; ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào sản xuất, trong đó, đặc biệt chú trọng đến các yếu tố giống, kỹ thuật và biện pháp thâm canh nên hiệu quả sản xuất được nâng lên, nhất là các loại cây công nghiệp dài ngày.
+ Chăn nuôi phát triển ổn định (6), đã có nhiều hộ gia đình phát triển chăn nuôi quy mô vừa và nhỏ, bước đầu phát huy hiệu quả. Công tác phòng, chống dịch bệnh được chú trọng đúng mức nên không có dịch bệnh nguy hiểm xảy ra. Việc lai tạo đàn bò được đẩy mạnh, tỷ lệ bò lai nâng lên 16,6%, vượt chỉ tiêu Nghị quyết V 1,6% (7).
+ Công tác quản lý, bảo vệ rừng, xử lý các vi phạm Luật bảo vệ và phát triển rừng được chỉ đạo quyết liệt (8). Đã thành lập và duy trì hoạt động Đoàn Công tác liên ngành thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng; xây dựng, triển khai các kế hoạch, phương án phòng chống cháy rừng, khoanh nuôi, tái sinh đối với diện tích rừng bị dân lấn chiếm; rà soát thu hồi hoặc đề xuất thu hồi giấy phép đối với các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất, chế biến lâm sản không phù hợp với quy hoạch chung của tỉnh. Đến nay, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 46,7% (kể cả diện tích cao su).
+ Đã triển khai hoàn thành cơ bản hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý đất đai thuộc dự án tổng thể để phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý. Tăng cường công tác kiểm tra, quản lý xây dựng, quản lý tài nguyên, khoáng sản, để kịp thời phát hiện, xử lý các trường hợp vi phạm. Tỷ lệ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đạt 86%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết V đề ra.
+ Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai tích cực, đảm bảo tiến độ theo kế hoạch. Đến nay, có 9/9 xã đã phê duyệt quy hoạch chung, quy hoạch chi tiết; ước cuối năm 2015, 2 xã điểm (Ia Krêl, Ia Dom) đạt chuẩn nông thôn mới. Các chính sách, chương trình, dự án đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, nông dân được triển khai kịp thời làm cho bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc.
- Sản xuất tiểu thủ công nghiệp - xây dựng duy trì mức tăng trưởng khá. Giá trị sản xuất gấp 3,22 lần so với năm 2010, tăng trưởng bình quân 27,14%/năm, vượt chỉ tiêu Nghị quyết V (9). Tiểu thủ công nghiệp từng bước phát triển, tập trung chủ yếu vào các ngành, nghề: sơ chế nông sản, gia công cơ khí, khai thác vật liệu xây dựng… Đã đầu tư khu sản xuất, kinh doanh tập trung nhằm thu hút các thành phần kinh tế trong và ngoài huyện có nhu cầu đầu tư, trong đó, chú trọng định hướng di dời các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra khỏi khu dân cư.
Công tác lập quy hoạch, kế hoạch và việc quản lý, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch đã được phê duyệt đảm bảo nghiêm túc. Đã hoàn thành việc lập quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của huyện đến năm 2020; quy hoạch sử dụng đất đến năm 2020 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm kỳ đầu 2011 - 2015; kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020; quy hoạch mạng lưới giao thông đến năm 2020; quy chế quản lý xây dựng đô thị trên địa bàn thị trấn Chư Ty.
Khu kinh tế Cửa khẩu Quốc tế Lệ Thanh tiếp tục được quan tâm. Trong giai đoạn 2010-2015, đã đầu tư 87.662 triệu đồng xây dựng 7 hạng mục công trình. Hoạt động thương mại Khu kinh tế Cửa khẩu có nhiều khởi sắc (10). Năm 2015, kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 195 triệu USD, tăng gấp 5,39 lần so với năm 2010.
- Thương mại - dịch vụ phát triển nhanh. Tổng giá trị ngành thương mại - dịch vụ gấp 2,91 lần so với năm 2010, tăng trưởng bình quân 24,9%/năm (11). Các doanh nghiệp, cá nhân tự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình khó khăn chung. Đến nay, trên địa bàn huyện có 02 chợ, 01 siêu thị, 60 doanh nghiệp, 03 hợp tác xã; 1.725 hộ kinh doanh, đã cung cấp đầy đủ, kịp thời, đa dạng các loại hàng hóa, đảm bảo chất lượng. Dịch vụ vận tải, bưu chính, viễn thông, bảo hiểm… phát triển đáng kể, đáp ứng được nhu cầu của người dân trên địa bàn.
- Hoạt động tài chính, ngân hàng mang lại hiệu quả thiết thực. Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đến năm 2015 (không kể trợ cấp, kết dư, chuyển nguồn) là 264,6 tỷ đồng, bình quân số thu hằng năm là 52,9 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 4,5% (12); trong đó, tổng thu cân đối ngân sách (không kể trợ cấp, kết dư, chuyển nguồn) là 236,7 tỷ đồng, bình quân hằng năm tăng 47,3 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hằng năm là 3,1%. Tổng chi ngân sách địa phương đến năm 2015 (không kể bổ sung trợ cấp cho ngân sách xã, thị trấn và chi chuyển nguồn) là 1.330,7 tỷ đồng, bình quân chi hằng năm là 266,1 tỷ đồng, tăng bình quân hằng năm là 16,2%; trong đó, chi cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo, khoa học công nghệ, môi trường chiếm 49,95% trong tổng chi ngân sách (13). Quá trình điều hành ngân sách, thực hiện theo quy định của pháp luật, đảm bảo công bằng, công khai, tạo tính chủ động trong công tác quản lý, sử dụng kinh phí; đồng thời, thường xuyên thanh tra, kiểm tra việc thu, chi ngân sách tại các địa phương, đơn vị, để kịp thời phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các sai phạm.
Đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng thương mại mở chi nhánh, phòng giao dịch để hoạt động, cung cấp dịch vụ tín dụng cho các tổ chức, cá nhân có nhu cầu, tạo cơ hội để mở rộng quy mô, phát triển sản xuất, tăng thu nhập, giải quyết nhiều việc làm tại chỗ, góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh trên địa bàn huyện. Hiện nay, có 05 chi nhánh, phòng giao dịch; trong đó, có 4 chi nhánh hoạt động thương mại, tăng 02 chi nhánh so với đầu nhiệm kỳ (14). Kết quả hoạt động huy động vốn tại địa phương, sử dụng vốn, số lượt tổ chức, hộ vay qua các năm đều tăng khá. Tổng dư nợ tăng trưởng bình quân 4,25%/năm, giải quyết cho 50.242 lượt tổ chức, cá nhân vay; trong đó, tốc độ tăng trưởng bình quân của Phòng giao dịch Ngân hàng Chính sách xã hội 3,71%/năm, giải quyết cho 14.070 lượt tổ chức, cá nhân vay.
- Tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng, kết cấu hạ tầng tiếp tục được quan tâm. Trong 5 năm tổng vốn đầu tư thực hiện là 2.506,7 tỷ đồng (trong đó, vốn ngân sách Nhà nước 324 tỷ đồng) gấp 2,74 lần so với giai đoạn 2005 - 2010 (15). Cơ cấu đầu tư chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Tỷ trọng vốn đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp và dân cư ngày càng tăng. Các công trình điện, đường, trường, trạm, nước sinh hoạt... được quan tâm đúng mức, góp phần tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống của nhân dân.
- Thực hiện chính sách phát triển các thành phần kinh tế được chú trọng (16). Các chính sách về phát triển các thành phần kinh tế được thực hiện hiệu quả. Đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh tiếp cận các nguồn vốn để sản xuất, kinh doanh. Kinh tế tập thể tiếp tục được củng cố, nòng cốt là hợp tác xã; khu vực kinh tế tư nhân, kinh tế hộ gia đình chiếm tỷ trọng ngày càng cao và đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho một bộ phận nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số.       
 
2- Về văn hóa, xã hội
- Sự nghiệp giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển, khoa học và công nghệ được quan tâm
Quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo tiếp tục được mở rộng. Năm học 2014 - 2015, toàn huyện có 51 trường, với 21.549 học sinh, tăng 5 trường, 3.053 học sinh so với năm học 2009 - 2010 (17); cơ sở vật chất, trang thiết bị được quan tâm đầu tư đảm bảo cho việc dạy và học . Công tác quản lý giáo dục, xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực được chú trọng. Đã thực hiện tốt việc đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị, kiến thức quản lý nhà nước cho đội ngũ giáo viên, nhờ đó mà tỷ lệ giáo viên đạt chuẩn được nâng lên 98,8%. Tỷ lệ huy động trẻ em trong độ tuổi đi học ở bậc tiểu học và trung học cơ sở đạt 98%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết V. Chất lượng giáo dục từng bước được nâng lên, tỷ lệ học sinh lên lớp, học sinh giỏi, học sinh đỗ tốt nghiệp các cấp và đỗ vào các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hằng năm đều tăng. Có 05 trường đạt chuẩn Quốc gia, tăng 04 trường so với năm 2010, đạt chỉ tiêu Nghị quyết V đề ra (18); 10/10 xã, thị trấn đạt chuẩn phổ cập giáo dục trẻ mẫu giáo 5 tuổi. Công tác khuyến học, khuyến tài, xã hội hóa giáo dục đào tạo và dạy nghề chuyển biến tích cực.
Tổng mức đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2010 - 2015 là 961 triệu đồng, bình quân hàng năm là 160,1 triệu đồng. Hoạt động khoa học và công nghệ từng bước có hiệu quả. Đã tập trung triển khai các mô hình, dự án ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào phát triển nông nghiệp, đa dạng hóa cây trồng, áp dụng các chế phẩm sinh học vào sản xuất, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả, năng suất cây trồng.
 - Công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được quan tâm đúng mức
Cơ sở vật chất và trang thiết bị phục vụ cho công tác khám, chữa bệnh được đầu tư. Chất lượng chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được nâng lên. Công tác y tế dự phòng được đẩy mạnh, không để dịch bệnh nguy hiểm xảy ra. Các Chương trình mục tiêu Quốc gia về Y tế được triển khai có hiệu quả. Chính sách về bảo hiểm y tế được triển khai tích cực, nhất là đối với người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, đối tượng chính sách, trẻ em dưới 6 tuổi. Công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình được quan tâm. Đội ngũ y, bác sỹ phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, 10/10 xã có bác sỹ, tăng 03 xã so với năm 2010; 8/10 xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế, tăng 05 xã so với năm 2010; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ 2,1% xuống còn 1,76%; tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 26,1% xuống còn 21,5%.
- Hoạt động văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao được tăng cường
Công tác xây dựng và phát triển văn hóa, thông tin, thể dục, thể thao được cấp ủy, chính quyền, cán bộ đảng viên, nhân dân quan tâm và nhận thức ngày càng đầy đủ hơn. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, nhiều giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc được phát huy, các thiết chế văn hóa, thể thao được đầu tư xây dựng (19). Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa, thể dục thể thao đạt được những kết quả thiết thực, phát huy được truyền thống văn hóa gia đình, dòng họ, cộng đồng; các phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số được nghiên cứu, sưu tầm. Phong trào “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” mang lại kết quả thiết thực. Đến nay, toàn huyện có 60% thôn, làng, tổ dân phố văn hóa, vượt 10% Nghị quyết V, 66% hộ gia đình văn hóa, vượt 11% Nghị quyết V. Công tác quản lý nhà nước về văn hóa được tăng cường. Xã hội hóa hoạt động văn hóa, thể thao ngày càng được mở rộng, góp phần đáng kể vào việc xây dựng các thiết chế văn hóa, thể thao.
Hoạt động thông tin tuyên truyền được chú trọng, cơ sở vật chất được quan tâm đầu tư. Đến nay, các xã đều có trạm truyền thanh không dây, kịp thời đưa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân.
- Các chính sách xã hội, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo được chú trọng
    Các chương trình, chính sách giảm nghèo bền vững được cấp ủy, chính quyền, các ngành quan tâm chỉ đạo, thực hiện lồng ghép với Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, nhờ đó mà tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm 2,9%, đạt chỉ tiêu Nghị quyết V. Phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm lo người có công với nước được chú trọng. Đã đầu tư nâng cấp, mở rộng Nghĩa trang Liệt sỹ và xây dựng Nhà tưởng niệm các Liệt sỹ huyện; hàng năm làm tốt lễ đón và an táng liệt sỹ quân tình nguyện Việt Nam tại Nghĩa trang Liệt sỹ huyện (20); đã xây dựng 150 nhà cho đối tượng chính sách và hỗ trợ sửa chữa nhà ở cho 500 người có công; thực hiện tốt chính sách chi trả chế độ, hỗ trợ các đối tượng được hưởng chính sách xã hội, giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo. Các hoạt động từ thiện được chú trọng, đã hỗ trợ xây dựng được 630 căn nhà cho hộ nghèo từ Quỹ “Vì người nghèo”, Quỹ “An sinh xã hội” của các doanh nghiệp theo Quyết định 167/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và dự án định canh, định cư xen ghép. Công tác giải quyết việc làm được quan tâm, hàng năm giải quyết việc làm cho 420 lao động.
Cùng với việc triển khai các chương trình, dự án (21) đối với đồng bào dân tộc thiểu số, đã huy động mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các làng, xã đặc biệt khó khăn, góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Đã giải quyết cơ bản đất ở, đất sản xuất và nước sinh hoạt cho các hộ dân người dân tộc thiểu số, đến nay có 84,3% hộ được sử dụng nước hợp vệ sinh.
Công tác quản lý nhà nước về tôn giáo được tăng cường. Đã thực hiện nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về tôn giáo và công tác tôn giáo, kiên quyết xử lý các hành vi lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá. Các quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân được bảo vệ, tôn trọng. Đa số đồng bào có đạo chấp hành tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương; hưởng ứng, thực hiện có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước (22).
 - Công tác bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu được tăng cường
Nhận thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên và nhân dân về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai được nâng lên đáng kể. Tăng cường công tác kiểm dịch động vật, thực vật qua biên giới với Campuchia. Công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp khắc phục, xử lý ô nhiễm môi trường được triển khai tích cực. Năm 2015, có 93% chất thải rắn ở đô thị được thu gom, tăng 8% so với năm 2010.
Công tác quy hoạch, quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên đất đai, khoáng sản, tài nguyên nước trong những năm gần đây đã được tăng cường; kịp thời xử lý các trường hợp vi phạm.
3- Về quốc phòng, an ninh, cải cách tư pháp và hoạt động đối ngoại
- Đã phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân. Các tiềm lực quốc phòng trong khu vực phòng thủ được đầu tư, kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với đảm bảo quốc phòng, an ninh. Hoạt động bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới Quốc gia luôn được tăng cường. Công tác giáo dục, huấn luyện, diễn tập, xây dựng lực lượng được chú trọng đúng mức (23). Chất lượng hoạt động, khả năng sẵn sàng chiến đấu và hợp đồng tác chiến của các lực lượng vũ trang được nâng lên. Chính sách hậu phương quân đội được chú trọng đúng mức.
- Công tác đảm bảo an ninh, trật tự đạt được một số kết quả quan trọng. Công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao ý thức cảnh giác, phòng chống “diễn biến hòa bình”, “tự diễn biến", "tự chuyển hóa” được đẩy mạnh. Chủ động nắm tình hình, phát hiện và đấu tranh, ngăn chặn có hiệu quả âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch; đồng thời, chủ động xây dựng, triển khai các kế hoạch đảm bảo an ninh trật tự: đấu tranh xoá bỏ tổ chức phản động FULRO, "Tin lành Đê ga"; phòng, chống vượt biên; chuyển hóa địa bàn phức tạp về an ninh trật tự... Công tác bảo vệ chính trị nội bộ, an ninh biên giới, an ninh nông thôn, an ninh tôn giáo, an ninh văn hóa tư tưởng, an ninh thông tin, an ninh học đường được chú trọng đúng mức (24).
Đẩy mạnh thực hiện các Chương trình mục tiêu Quốc gia về phòng, chống tội phạm gắn với triển khai đồng bộ, quyết liệt các biện pháp kiềm chế tai nạn giao thông (25). Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia đấu tranh, phòng ngừa các loại tội phạm, tệ nạn xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự tại cơ sở.
-  Công tác cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị được chú trọng. Hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án tuân thủ theo quy định của pháp luật, chất lượng và hiệu quả ngày càng được nâng lên; quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân được bảo vệ (26). Chất lượng hoạt động của Hội thẩm nhân dân các cấp được nâng lên. Chú trọng củng cố tổ chức bộ máy, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động các cơ quan điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
- Công tác đối ngoại với chính quyền, nhân dân và các lực lượng vũ trang dọc tuyến biên giới Campuchia được tăng cường. Hàng năm, huyện đã bố trí ngân sách, thành lập các đoàn công tác sang thăm, chúc mừng các ngày lễ, tết; chỉ đạo Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể huy động các tổ chức, cá nhân trên địa bàn đóng góp tiền để xây dựng nhà ở cho hộ nghèo huyện OzaDao, tỉnh Ratanakiri, Campuchia (27). Các lực lượng vũ trang duy trì ký kết Chương trình phối hợp công tác, giao ban định kỳ để trao đổi thông tin và triển khai các biện pháp đảm bảo an ninh khu vực hai bên biên giới. Chính quyền, đoàn thể, nhân dân các xã 2 bên biên giới luân phiên tổ chức các hoạt động giao lưu văn hóa, văn nghệ; qua đó, đã góp phần củng cố thêm tình đoàn kết hữu nghị, đảm bảo an ninh biên giới, giữ vững chủ quyền quốc gia, phục vụ tốt cho công tác phân giới cắm mốc biên giới giữa 2 Quốc gia.
4- Xây dựng hệ thống chính trị
- Công tác xây dựng Đảng
+ Công tác giáo dục chính trị tư tưởng
Triển khai học tập, quán triệt nghiêm túc các chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước (28), nhờ đó cán bộ, đảng viên nhận thức sâu sắc hơn Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đường lối đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy vai trò tiền phong gương mẫu trong các hoạt động. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng, truyền thống cách mạng và công tác tuyên truyền nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch và bọn phản động FULRO được chú trọng đúng mức (29). Tư tưởng, tâm trạng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân ổn định, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý, điều hành của chính quyền; ra sức thi đua thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Các cấp ủy, tổ chức đảng nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khoá XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” theo chỉ đạo, hướng dẫn của Trung ương và của Tỉnh ủy. Việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong Đảng đã trở thành một việc làm thường xuyên, nền nếp, góp phần cảnh tỉnh, cảnh báo, răn đe, phòng ngừa các sai phạm, bước đầu ngăn chặn được tình trạng suy thoái về chính trị tư tưởng, đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao năng lực, sức chiến đấu và tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Các kết luận sau kiểm điểm được giải quyết kịp thời, dứt điểm, góp phần củng cố thêm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng (30).  
Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh được triển khai tích cực, làm chuyển biến mạnh mẽ nhận thức và hành động của đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức. Các cấp, các ngành gắn việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động nhân dân và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Tổng kết 4 năm thực hiện Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, đã biểu dương khen thưởng và đề nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy biểu dương, khen thưởng 14 tập thể, 23 cá nhân có thành tích xuất sắc trong việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
+ Công tác kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, củng cố tổ chức đảng
Đến nay, Đảng bộ có 48 tổ chức cơ sở đảng, tăng 03 tổ chức cơ sở đảng so với đầu nhiệm kỳ; thành lập 06 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở ở 06 thôn, làng chưa có tổ chức đảng, hoàn thành chỉ tiêu Nghị quyết V đề ra (31). Tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, chính quyền, đoàn thể từ huyện đến cơ sở được sắp xếp, kiện toàn theo đúng quy định. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức đảng và đảng viên được nâng lên, thể hiện được vai trò hạt nhân lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị. Công tác xây dựng, củng cố tổ chức đảng, đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên hằng năm đảm bảo chặt chẽ, thực chất hơn. Tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh bình quân hằng năm đạt 42,3 %; tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ hằng năm chiếm trên 84,3%, tăng 4,3% so với chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Công tác phát triển đảng viên được quan tâm chú trọng, đã kết nạp được 620 đảng viên, bình quân mỗi năm kết nạp được 124 đảng viên, nâng tổng số đảng viên trong toàn đảng bộ lên 2.166 đảng viên, đạt chỉ tiêu Nghị quyết V.
Quán triệt các chủ trương, nghị quyết của Trung ương và của Tỉnh ủy về công tác tổ chức cán bộ, Huyện ủy đã triển khai thực hiện nghiêm túc, đúng quy trình, có hiệu quả công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, luân chuyển cán bộ đảm bảo phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị (32). Việc lấy phiếu tín nhiệm cán bộ, trọng tâm là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã được thực hiện nghiêm túc, nhờ đó mà chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của huyện được nâng lên đáng kể, nhất là cán bộ đạt tiêu chuẩn theo chức danh. Việc thực hiện chính sách cán bộ trong hệ thống chính trị tiếp tục được quan tâm, nhất là cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ nữ (33).
 Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được chú trọng, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch vững mạnh. Đã triển khai thẩm tra, xác minh và kết luận cụ thể vấn đề lịch sử chính trị và chính trị hiện nay đối với cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ thuộc diện quy hoạch, cán bộ là quần chúng ưu tú đề nghị xem xét, kết nạp vào đảng (34).
+ Công tác kiểm tra, giám sát được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo chất lượng. Các cấp ủy, tổ chức đảng đã chủ động hơn trong công tác kiểm tra, giám sát theo quy định của Điều lệ Đảng, trong đó, đặc biệt chú trọng kiểm tra, giám sát những lĩnh vực, đối tượng có vấn đề phức tạp; thẩm tra, xác minh, làm rõ những vấn đề theo Kết luận của Ban Thường vụ Huyện uỷ về kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Việc lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai nhiệm vụ kiểm tra, giám sát được tiến hành đồng bộ, toàn diện, đúng nguyên tắc, phương pháp; việc thi hành kỷ luật đảng được thực hiện đúng phương hướng, phương châm, nguyên tắc, thủ tục của Đảng (35). Công tác giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến đảng viên và việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm được quan tâm hơn, góp phần xây dựng đảng trong sạch vững mạnh (36).
+ Công tác dân vận của Đảng
Công tác dân vận được quan tâm và có bước đổi mới trong phương thức hoạt động. Chương trình kết nghĩa, phụ trách làng, xã được triển khai sâu rộng, góp phần tích cực vào việc đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Các phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào thi đua “Dân vận khéo” được đẩy mạnh. Duy trì, thực hiện tốt việc tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân; tăng cường bám cơ sở, kịp thời nắm bắt, giải quyết những vấn đề bức xúc, nảy sinh trong nhân dân. Quy chế phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, các lực lượng vũ trang, các ngành chức năng được triển khai thường xuyên và mang lại hiệu quả thiết thực. Quy chế dân chủ được các cấp ủy, tổ chức đảng, các ban, ngành, đoàn thể chỉ đạo, thực hiện hiệu quả; vai trò làm chủ của nhân dân được phát huy. Thường xuyên kiện toàn, củng cố các ban chỉ đạo, gắn kết quả thực hiện quy chế dân chủ vào việc đánh giá, phân loại tổ chức cơ sở đảng.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, phát huy dân chủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong sinh hoạt Đảng
Trên cơ sở các quy định của Trung ương và của Tỉnh ủy, các cấp ủy, tổ chức đảng đã kịp thời rà soát, điều chỉnh, bổ sung, ban hành các quy chế, quy định phù hợp với tình hình thực tế của huyện. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc có nhiều chuyển biến. Đã thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Phân công nhiệm vụ rõ ràng, giải quyết công việc đúng thẩm quyền, đúng nguyên tắc, đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng. Tăng cường công tác cơ sở, bám địa bàn, bám dân, giải quyết kịp thời, dứt điểm các vấn đề mới nảy sinh, không để hình thành điểm nóng. Những vấn đề lớn, quan trọng đều được đưa ra tập thể bàn bạc, quyết định theo đa số. Tại các cuộc họp đều thực hiện nghiêm túc việc chất vấn và trả lời chất vấn theo quy định.
Việc ban hành các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo từng bước đổi mới theo hướng ngắn gọn, cụ thể, sát thực với tình hình thực tế và có tính khả thi cao. Công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng được triển khai kịp thời, đảm bảo yêu cầu của cấp trên. Chỉ đạo các đảng bộ trực thuộc, các ngành, các cấp căn cứ chức năng, nhiệm vụ xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện cụ thể phù hợp với tình hình thực tế của địa phương, đơn vị. Công tác cải cách thủ tục hành chính trong Đảng được chú trọng (37). Công tác kiện toàn, củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động các cơ quan chuyên trách tham mưu, giúp việc cho Huyện ủy được quan tâm (38). Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy mang lại hiệu quả thiết thực.
 
- Công tác xây dựng chính quyền
Hội đồng nhân dân các cấp được đổi mới về cả nội dung và phương thức hoạt động, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ theo đúng quy định của pháp luật. Chất lượng các kỳ họp ngày càng được nâng lên, đặc biệt đã dành nhiều thời gian cho thảo luận bàn và quyết định các vấn đề quan trọng của huyện. Công tác thẩm tra các nội dung trình kỳ họp và việc giám sát thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân được chú trọng. Thực hiện tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp đúng quy định; những kiến nghị của cử tri được phản ánh kịp thời đến các cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Hầu hết đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trước Đảng, trước dân, gắn bó với nhân dân, được nhân dân tín nhiệm.
Ủy ban nhân dân các cấp đã triển khai kịp thời nghị quyết của cấp uỷ và có nhiều giải pháp tích cực để tăng cường công tác quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Quá trình chỉ đạo, điều hành đã tập trung vào các nhiệm vụ trọng tâm như: Quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quản lý sử dụng đất đai, thu chi ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo bền vững; tăng cường đôn đốc, thanh tra, kiểm tra kết quả triển khai thực hiện; đã có những giải pháp hữu hiệu kịp thời xử lý những vấn đề phát sinh, tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, thu hút các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh. Công tác cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biến tích cực, bước đầu đã giảm thiểu phiền hà cho người dân và doanh nghiệp.
Công tác tiếp dân, giải quyết đơn, thư phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo có nhiều chuyển biến tích cực (39), đã hạn chế đến mức thấp nhất đơn thư khiếu kiện vượt cấp. Chú trọng triển khai các cuộc thanh tra chuyên đề, thanh tra đột xuất, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm, dễ phát sinh tiêu cực như: công tác quản lý đất đai, thu chi ngân sách, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí (40).
- Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
 Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có nhiều đổi mới, góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Các hoạt động đã hướng về cơ sở, động viên đoàn viên, hội viên và nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xây dựng đời sống văn hóa, tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các hoạt động nhân đạo, từ thiện, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Công tác củng cố, kiện toàn tổ chức, xây dựng lực lượng cốt cán, đoàn viên, hội viên được chú trọng (41). Thực hiện tốt chức năng giám sát đối với hoạt động của chính quyền các cấp trong việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Phối hợp giải quyết kịp thời những bức xúc, đáp ứng nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của nhân dân.


 

Other


Thông tin bản quyền

Cơ quan: huyện Đức Cơ - tỉnh Gia Lai
Địa chỉ: Thị trấn Chư Ty - Huyện Đức Cơ - tỉnh Gia Lai
Điện thoại: (0269) 3846107 - Fax: (0269) 3846428 - Email:ubndducco@gialai.gov.vn
Người chịu trách nhiệm:
Lê Văn Thịnh - Chánh Văn phòng HĐND & UBND huyện Đức Cơ
Giấy phép số: 01/GP-TTĐT ngày 23 tháng 5 năm 2018  của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Gia Lai
handle_cert.png